Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục “Biện pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn ngắn đạt hiệu quả cho học sinh Lớp 2”

ppt 47 trang Mỹ Huyền 23/12/2024 380
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục “Biện pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn ngắn đạt hiệu quả cho học sinh Lớp 2”", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pptsang_kien_kinh_nghiem_giai_phap_nang_cao_chat_luong_giao_duc.ppt

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục “Biện pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn ngắn đạt hiệu quả cho học sinh Lớp 2”

  1. UBND HUYỆN GIA BÌNH TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐẠI LAI GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC “Biện pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn ngắn đạt hiệu quả cho học sinh lớp 2” Giáo viên: Nguyễn Thị Toan
  2. Bố cục báo cáo Phần II: Phần III: Phần I Phần IV: Giải quyết Minh Đặt vấn đề Cam kết vấn đề chứng - Thực trạng công tác dạy và học rèn kĩ năng viết đoạn văn - Các biện pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh - Thực nghiệm sư phạm - Kết luận - Kiến nghị, đề xuất
  3. Phần I: Đặt vấn đề Ở bậc Tiểu học, môn Tiếng Việt có ý nghĩa đặt biệt quan trọng đối với học sinh, giúp các em phát triển toàn diện hình thành những cơ sở thế giới khoa học.Trong đó Tập làm văn là một trong những phân môn có tầm quan trọng, đặc biệt ở bậc tiểu học nhất là học sinh lớp 2 (vì ở lớp 1 các em chưa được học, lên lớp 2 học sinh mới bắt đầu được học, được làm quen).
  4. Phân môn Tập làm văn trong môn Tiếng Việt hội tụ đủ 4 kỹ năng cơ bản: Nghe Nói Đọc Viết
  5. Đối với học sinh lớp 2 thì đây là một phân môn khó. Bởi ở lứa tuổi của các em, đang ở bước đầu rèn nói và viết: từ, câu, đoạn, vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn hẹp.
  6. Phân môn Tập làm văn ở Tiểu học có nhiệm vụ rất quan trọng là rèn kỹ năng nói và viết, góp phần hình thành, phát triển nhân cách của trẻ và những kiến thức cơ bản trong đời sống hằng ngày. Trong chương trình Tập làm văn lớp 2, ngay từ đầu năm học, các em đựơc làm quen với đoạn văn và được rèn kỹ năng viết đoạn văn từ 3 đến 5 câu.
  7. Trong quá trình làm bài, tôi nhận thấy các em còn lúng túng, nhiều học sinh làm bài chưa đạt yêu cầu. Các em chưa biết viết 1 câu hoàn chỉnh, thường lặp lại câu đã viết, dùng từ sai, có em viết không đúng yêu cầu của đề bài hoặc có những bài làm đảm bảo về số câu nhưng viết không đủ ý.
  8. Là một giáo viên giảng dạy ở lớp 2, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế nào để giúp các em thực hiện được mục tiêu đã đề ra? Bản thân tôi luôn cố gắng để tìm ra những giải pháp nâng cao chất lượng học tập cho học sinh của lớp mình. Chính vì thế mà tôi chọn nghiên cứu và thực nghiệm "Biện pháp rèn kỹ năng viết đoạn văn ngắn đạt hiệu quả cho học sinh lớp 2” làm biện pháp cùng chia sẻ với đồng nghiệp trong giảng dạy.
  9. PHẦN II GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Thực trạng công tác dạy và học phân môn Tập làm văn ở lớp 2 1. Ưu điểm: - Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường và các cấp chính quyền địa phương. - Là giáo viên giảng dạy lớp 2 nhiều năm nên có nhiều kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm. - Được đào tạo chuẩn hoá về chuyên môn. - Được sự giúp đỡ của đồng chí, đồng nghiệp trong công tác giảng dạy. - Cơ sở vật chất cũng như đồ dùng dạy học cũng được nhà trường trang bị đầy đủ phục vụ cho việc dạy và học. - Sách vở và đồ dùng học tập của học sinh được phụ huynh mua sắm đầy đủ.
  10. 2. Hạn chế, nguyên nhân hạn chế - Là lớp đầu cấp (sau lớp 1) nên các em còn hạn chế khả năng giao tiếp, ngôn ngữ còn hạn hẹp về vốn từ. - Phụ huynh đa số là nông dân ít có điều kiện quan tâm đến việc học tập sinh hoạt của con em. - Một số em còn ham chơi chưa có ý thức tự giác học tập. - Các em học sinh lớp 2 đa số có vốn sống còn ít, vốn hiểu biết về Tiếng Việt còn rất sơ sài, chưa định rõ trong giao tiếp, viết văn câu còn cụt ngủn hoặc câu có thể có đủ ý nhưng chưa có hình ảnh. - Giáo viên chưa đầu tư vào nghiên cứu kĩ bài, sử dụng phương pháp và hình thức chưa hợp lý vì vậy giờ học Tập làm văn còn đơn điệu , nhàm chán, thụ động. - Chưa rèn cho học sinh có thói quen đọc các bài văn mẫu, văn hay từ đó rút ra ý hay
  11. II. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 viết đoạn văn ngắn trong phân môn tập làm văn - Biện pháp 1: Tích cực vận dụng phương pháp dạy học phát huy năng lực học tập của học sinh. - Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh hình thành đoạn văn. - Biện pháp 3: Thực hiện nghiêm túc việc nhận xét và chữa bài - Biện pháp 4: Phối hợp với phụ huynh học sinh.
  12. 1. Biện pháp 1: Tích cực vận dụng phương pháp dạy học phát huy năng lực học tập của học sinh. ( Gồm 3 phương pháp) a) Kết hợp phương pháp quan sát và hỏi đáp Thứ nhất yêu cầu học sinh có thói quen quan sát những sự vật hiện tượng xung quanh để ghi nhận lại và sử dụng khi thật cần thiết. Kỹ năng quan sát rất cần cho học sinh khi viết văn: Quan sát trên lớp theo gợi ý, hướng dẫn của giáo viên hoặc tự quan sát khi chuẩn bị bài ở nhà
  13. Thứ hai khai thác kỹ tranh, ảnh, tập trung quan sát đặc điểm nổi bật của đối tượng, mục đích là giúp học sinh tránh được kiểu kể theo liệt kê. Bên cạnh đó, tôi cũng hướng dẫn học sinh cách quan sát bằng các giác quan để cảm nhận một cách có cảm xúc về sự vật.
  14. Thứ ba thông qua phương pháp quan sát, rèn cho học sinh kỹ năng nói từ , nói câu ngắn, nói câu dài, trình bày miệng bài nói, trước khi làm bài viết. Trên cơ sở đó, tôi điều chỉnh giúp học hoàn thiện bài viết. Với phương pháp này, tôi thường tổ chức cho học sinh luyện nói cá nhân, luyện nói trong nhóm. ( học sinh có thể kết nhóm theo ý thích, để có sự thoải mái tự nhiên, tự tin khi tham gia làm việc trong nhóm )
  15. Ví dụ Tả ngắn về biển, có em bảo là con chưa bao giờ nhìn thấy biển. Quả đúng như vậy, vì các em được sinh ra và lớn lên ở nông thôn miền núi nên các em không nhìn thấy biển là đúng. Bởi thế tôi thường sưu tầm những tranh ảnh để có thể trình chiếu cho các em, cho các em quan sát về cảnh biển, Hoặc vào dịp nghỉ lễ, nghỉ hè các em hay được ba mẹ cho đi tham quan tắm biển, nhân đó, tôi có thể yêu cầu học sinh quan sát kỹ để có ý tưởng cho tập làm văn tả cảnh biển.
  16. b, Phương pháp phân tích ngôn ngữ Học sinh lớp 2 chưa được học về lý thuyết, ngữ pháp, các khái niệm từ và câu được hình thành thông qua thực hành luyện tập. Chính vì vậy, việc tăng cường sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ rất cần thiết trong giờ học Tập làm văn. Sử dụng phương pháp này để tôi có cơ sở giúp học sinh nhận ra cấu tạo câu, nhằm giúp các em viết câu đúng, đủ bộ phận, diễn đạt ý rõ ràng, dễ hiểu
  17. Ví dụ Dựa vào các mẫu câu được học trong phân môn Luyện từ và câu: “ Ai – là gì?”, “ Ai – làm gì?”, “ Ai – thế nào?”, tôi hướng dẫn học sinh nhận biết những vấn đề sau: - Câu văn của em viết ra đã đủ hai bộ phận chưa: Bộ phận trả lời cho câu hỏi Ai?( hoặc Cái gì?/ Con gì)?, bộ phận trả lời cho câu hỏi Là gì (hoặc Làm gì?/ thế nào? (Đó chính là đảm bảo về hình thức cấu tạo).
  18. - Người đọc, người nghe có hiểu nội dung chưa? (Đảm bảo về mặt nghĩa).Trên cơ sở đó, tôi hướng dẫn học sinh viết dấu chấm câu phù hợp khi hết câu. Mỗi tiết học có kiến thức liên quan, tôi đều gợi mở cho học sinh tự khắc sâu kiến thức về các mẫu câu và nhắc học sinh áp dụng khi giao tiếp ở gia đình, trong trường học và nơi công cộng. Khi giao tiếp các em phải nói 1 câu rõ ràng cho người nghe hiểu được ý mình muốn nói.
  19. c, Phương pháp sử dụng từ ngữ trong câu Các em mới ở lớp 1 lên, có một số em nói chưa rõ, thậm chí còn nói ngọng, chưa biết cách dùng từ để thể hiện ý của mình nên việc sử dụng từ ngữ trong bài tập làm văn còn nhiều hạn chế. Hầu hết học sinh sử dụng từ ngữ chưa phù hợp, chưa chính xác. Vì vậy, giáo viên cần cung cấp, giúp các em lựa chọn, phân tích để sử dụng từ ngữ cho hợp lý. Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần giới thiệu, cung cấp thêm các từ đồng nghĩa phù hợp với bài văn.
  20. Ví dụ: Khi viết đoạn văn kể về người thân thì học sinh sẽ có nhiều bài làm khác nhau, giáo viên cần giúp học sinh chọn lựa từ ngữ cho phù hợp. Khi kể về bố là thầy giáo thì từ ngữ sử dụng phải khác với bài viết bố là bộ đội; viết về tình cảm của em đối với với cha mẹ, ông bà thì từ dùng phải khác với viết về tình cảm của mình đối với bạn bè;
  21. Viết về cảnh biển buổi sáng có thể dùng các từ đồng nghĩa như: bình minh, hừng đông, sớm mai; viết về gia đình có các từ như đoàn tụ, sum họp, quây quần ; để diễn tả mặt trời mùa hè có các từ: chói chang, gay gắt, đỏ rực, như mâm lửa khổng lồ, như quả cầu lửa Giáo viên cần chuẩn bị kỹ với mỗi bài để hướng dẫn, gợi mở cho HS một số vốn từ để học sinh vận dụng các từ ngữ thích hợp vào bài viết của mình.
  22. 2. Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh hình thành đoạn văn Khi các em nắm được yêu cầu của đề bài, do vốn từ các em còn nhiều hạn chế, các em chưa biết cách sử dụng từ phù hợp vì vậy đoạn văn thường viết theo kiểu liệt kê, thiếu cảm xúc. Để khắc phục tình trạng này tôi đã làm như sau:
  23. a) Giúp HS có một hệ thống câu hỏi gợi ý rõ ràng Trong chương trình, hầu hết các bài văn đều có câu hỏi gợi ý rõ, đầy đủ. Tôi có thể tranh thủ thời gian cuối tiết học hướng dẫn học sinh chuẩn bị, đọc câu hỏi gợi ý, suy nghĩ bài viết cho tiết sau. Hoặc chuẩn bị phần tự học khi ở nhà, trước khi lên lớp. Đối với những bài không có câu hỏi gợi ý, tôi có thể soạn, cung cấp cho các em.
  24. Ví dụ: Bài viết kể về gia đình em. - Gia đình em gồm có mấy người? Đó là những ai? - Kể từng người trong gia đình em. - Mỗi người trong gia đình quan tâm nhau như thế nào? -Tình cảm của em đối với gia đình như thế nào? Khi các em có hệ thống câu hỏi gợi ý rõ ràng, các em dễ dàng định hình những gì cần viết. Và đối với học sinh gặp khó khăn trong học tập các em cũng có thể bắt nhịp được yêu cầu của bài viết được câu ngắn, đủ ý theo yêu cầu.
  25. b. Giúp học sinh nắm chắc bố cục của đoạn văn Trong quá trình viết bài, trình bày đoạn văn, nhiều học sinh thiếu câu mở đầu, hoặc kể liệt kê, chưa đảm bảo cấu trúc một đoạn văn. Để giúp học sinh nắm được trình tự các bước khi viết một đoạn văn tôi đã hướng dẫn học sinh thực hiện như sau:
  26. • Viết câu mở đầu: Giới thiệu đối tượng cần viết. ( Có thể diễn đạt bằng một câu ) • Phát triển đoạn văn: Kể về đối tượng: Có thể dựa theo gợi ý, mỗi gợi ý có thể diễn đạt 2,3 câu tùy theo năng lực học sinh. • Câu kết thúc: Có thể viết một câu thường là nói về tình cảm, suy nghĩ , mong ước của em về đối tượng được nêu trong bài hoặc nêu ý nghĩa, ích lợi của đối tượng đó đối với cuộc sống, với mọi người.
  27. • Câu mở đầu: Giới thiệu chim cánh cụt: Trong thế giới loài chim, em thích nhất là chim cánh cụt. • Phát triển đoạn văn: Kể về chim cánh cụt: Cánh cụt sống ở những nơi lạnh giá, đầy băng tuyết. Nó có đôi cánh giống như hai mái chèo. Dáng đi của nó lũn chũn, trông rất buồn cười. Là một loài chim rất dễ thương nhưng em chẳng thấy nó bay bao giờ. Thế nhưng nó lặn sâu dưới nước để bắt cá rất giỏi. • Câu kết thúc: Tình cảm của em đối với loài chim này: Em thích chim cánh cụt vì chúng là những con vật hiền lành, dễ thương.
  28. c. Chú trọng lồng ghép kiến thức giữa các phân môn Tiếng Việt Để các em có thể làm được một bài văn tốt, các em phải có vốn từ ngữ phong phú. Mà vốn từ đó, có em tích lũy khá nhiều nhưng chưa biết vận dụng. Có em thì có rất ít hoặc chưa hề có. Bởi vậy, giáo viên chính là người cung cấp. Mà cung cấp ở đâu? Tôi nghĩ trong các bài tập đọc có khá nhiều. Mỗi chủ đề của môn Tiếng Việt thì môn tập đọc đều có những bài văn, bài thơ nói về chủ để đó.
  29. Trong quá trình giảng dạy tôi chú ý đến những bài tập đọc có liên quan đến tiết tập làm văn, yêu cầu HS gạch chân hoặc viết ra giấy. Từ đó học sinh có thể rút ra những câu văn hay, từ ngữ đẹp và ghi nhớ sau này vận dụng. Hoặc trong các tiết dạy TNXH các em được trực tiếp quan sát các con vật và có từ ngữ về đặc điểm của chúng,Tôi yêu cầu các em trình bày cụ thể, đây là cơ sở để các em có thể viết một đoạn văn ngắn về một con vật.
  30. Khi học về chủ đề “ Ông bà” “Cha mẹ”, “Anh em” ( từ tuần 10 đến tuần 16), với rất nhiều những bài đọc thắm đượm tình cảm thương yêu trong gia đình. Học sinh hiểu rõ và nắm chắc người thân của mình là những ai, giúp các em viết tốt về chủ đề kể về người thân trong gia đình.Trong bài tập đọc “Ngôi trường mới”, học sinh có thể rút ra được một số câu văn, từ ngữ tả về ngôi trường : “Nhìn từ xa, những mảng tường vàng, ngói đỏ như những cánh hoa lấp ló trong cây. Tường vôi trắng, cánh cửa xanh, bàn ghế gỗ xoan đào nổi vân như lụa.”.Vận dụng từ ngữ có trong phân môn luyện từ và câu. như bài: “Từ ngữ về Bác Hồ. Dấu chấm, dấu phẩy” tôi cho học sinh học thuộc các từ ngữ về Bác và cách sử dụng dấu chấm, dấu phẩy để vận dụng cho tiết Tập làm văn tả ngắn về Bác Hồ.
  31. Để cho đoạn văn thêm sinh động, giáo viên cần cung cấp cho học sinh: Nhiều từ ngữ gợi tả, từ láy, từ tượng thanh, tượng hình Ví dụ : Mặt biển xanh và rộng Mặt biển xanh ngắt và rộng mênh mông. Nối các câu văn lại thành những từ ngữ liên kết như: và, thì, nếu, vậy là .
  32. Lưu ý học sinh trong đoạn văn tránh lặp lại từ nhiều lần mà phải thay những từ ngữ lặp lại bằng từ có ý nghĩa tương tự, thay những từ ngữ thông thường thành những từ ngữ trau chuốt hơn. Ví dụ: buổi sáng thành buổi sớm mai, buổi bình minh. Ví dụ: Anh của em Anh trai của em, hoặc anh ấy, anh Minh ( thay bằng gọi tên)
  33. d) Các bước thực hiện viết đoạn văn Bước 1: Cá nhân thảo luận trong nhóm thông qua câu hỏi gợi ý (việc này phát huy được mọi thành viên đều làm việc, giúp đỡ được học sinh gặp khó khăn). Giáo viên gợi ý cho học sinh trả lời bằng nhiều ý kiến khác nhau. Bước 2: Tổ chức cho học sinh trả lời trước lớp. Cho học sinh nhận xét, đánh giá chính mình và của bạn kết hợp sửa chữa những câu trả lời chưa đúng. Hướng dẫn học sinh sắp xếp các câu trả lời đó theo một trật tự hợp lý để hoàn chỉnh bài làm miệng. Tiếp theo cho một số học sinh làm miệng cả bài. Bước 3: Hướng dẫn học sinh viết liền mạch các câu trả lời thành một đoạn văn.
  34. 3. Biện pháp 3: Thực hiện nghiêm túc việc nhận xét và chữa bài Bước 1: Thực hiện nhận xét và chữa bài. Đây là việc làm hết sức cần thiết, giúp học sinh nhận ra lỗi sai để điều chỉnh , sửa chữa, hoàn chỉnh bài văn (tôi có theo dõi, kiểm tra, cho HS đọc lại bài đã được sửa, tránh tình trạng chỉ nghe mà không thực hành đối với HS Hoàn thành). Đối với những bài làm có ý hay, tôi giúp học sinh gọt giũa, trau chuốt thêm cho bài văn được hay hơn. Trong quá trình chữa bài, tôi phát hiện, giúp HS khắc phục, biết lựa chọn, thay thế các từ ngữ cho phù hợp. Tôi ghi lời nhận xét cụ thể về cách dùng từ,viết câu, hoặc có thể nhận xét trực tiếp cho các em hiểu, rút kinh nghiệm lần sau.
  35. Bước 2: Giới thiệu những bài văn hay của học sinh ở năm học trước nhằm kích thích tinh thần học tập của học sinh, hoặc những bài viết hay của học sinh trong lớp cho các em tham khảo, từ đó nhận thấy sự khác nhau về cách diễn đạt trong cùng một đề tài để các em hiểu rằng những bài làm thể hiện suy nghĩ độc lập của cá nhân luôn được khích lệ và khen ngợi, yêu thích.
  36. 4. Biện pháp 4: Phối hợp với phụ huynh học sinh • Để học sinh học phân môn Tập làm văn của lớp đạt kết quả tốt, giáo viên cần làm tốt công tác tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh để cùng xây dựng tốt nề nếp tự học và chuẩn bị bài ở nhà. Cụ thể ngay từ đầu năm học tôi đã trao đổi vối phụ huynh về tình hình học tập của con em, qua đó nêu vai trò của môn Tiếng Việt đặc biệt là phân môn tập làm văn. Tôi đã đưa ra chương trình mà các em được học trong năm học cụ thể là:
  37. * Dạy các nghi thức lời nói tối thiểu, như: chào hỏi, tự giới thiệu, cảm ơn, xin lỗi, yêu cầu, tán thành. * Dạy một số kỹ năng phục vụ học tập và đời sống, như: khai bản tự thuật ngắn, viết những bức thư ngắn, đọc và lập danh sách học sinh. * Viết một đoạn văn ngắn về: Gia đình; Một người thân; Cô giáo ( hoặc thầy giáo )của em; Các mùa trong năm; Một loài chim; Một con vật; Tả ngắn về biển; Tả ngắn về một loài cây; Một loài hoa; Kể về Bác Hồ; kể về em bé; Kể một việc làm tốt.
  38. Trong đó tôi lưu ý cách viết đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu và nêu thực trạng viết đoạn văn của các em trong những năm học trước, từ đó trao đổi các biện pháp tại nhà kết hợp với ở trường để giúp các em có kỹ năng viết văn tốt hơn. Nắm rõ nội dung chương trình các em được học, phụ huynh dễ dàng có những phương pháp tiếp cận, khơi gợi cảm xúc viết đoạn văn cho các em. Khuyến khích phụ huynh lựa chọn nhiều sách, báo cho các em đọc.
  39. III. Thực nghiệm các giải pháp 1. Mô tả cách thức thực hiện - Phạm vi áp dụng thực nghiệm lớp 2A trường Tiểu học Đại Lai - Khảo sát, đánh giá từng học sinh bằng cách phối hợp nhiều hình thức: Quan sát; thông qua giáo viên chủ nhiệm cũ; thông qua các thầy cô trong nhà trường; thông qua phụ huynh học sinh; đặc biệt thông qua việc chia sẻ tâm sự với các em học sinh trong lớp. - Trao đổi với phụ huynh cùng bàn các giải pháp phối hợp để giáo dục các em. - Thực nghiệm 4 biện pháp nêu trên vào trong các bài học cụ thể: Tiết TLV và lồng ghép vào trong các tiết học khác. - Thường xuyên theo dõi, khảo sát học sinh dưới nhiều hình thức để đánh giá sự tiến bộ của học sinh để từ đó có các biện pháp phù hợp kịp thời.
  40. 2. Kết quả đạt được * Đối với học sinh: Sau khi sử dụng các biện pháp trên, tôi nhận thấy kết quả học tập phân môn Tập làm văn của lớp tôi có nhiều tiến bộ, các em thích thú, háo hức, chờ đợi đến phân môn Tập làm văn để thể hiện mình trước bạn bè và thầy cô giáo. Các em rất tự tin mỗi khi khám phá, viết đoạn văn theo cách riêng của mình. Trong năm học vừa qua, khi vận dụng những phương pháp trên vào giảng dạy cho học sinh, tôi nhận thấy rất khả quan khi dạy phân môn TLV. Thành tích học tập của các em cao hơn, chất lượng hơn và học sinh học tập cũng tích cực hơn so với kết quả đầu năm.
  41. Tốt Hoàn thành CHT Giai đoạn TSHS SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ % Đầu năm 36 Tháng 11 36
  42. * Đối với giáo viên: Tôi đã có trong tay những giải pháp khi dạy dạng bài này và không còn lúng túng khi giảng dạy cho học sinh. * Đối với nhà trường: Thông qua biện pháp này mà tổ chuyên môn trường chúng tôi đã có những buổi họp chuyên môn hữu ích, các đồng chí không chỉ sôi nổi thảo luận khi dạy về phân môn tập làm văn lớp 2 nói riêng này mà còn mạnh dạn đề ra các biện pháp dạy học phù hợp với các phân môn khác. * Đối với gia đình: Cha mẹ học sinh cùng cộng đồng tham gia vào các hoạt động giáo dục. Có được như vậy một phần nhờ tinh thần học tập tự giác, tích cực của học sinh, sự quan tâm nhắc nhở phụ huynh. Đặc biệt với biện pháp giáo dục như trên sẽ thu hút được phần lớn phụ huynh vào các hoạt động giáo dục.Tạo mối gắn kết giữa gia đình- nhà trường – xã hội.
  43. IV. Kết luận: Qua quá trình áp dụng một số biện pháp rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn ngắn hiệu quả cho học sinh lớp 2. Đây là một giải pháp mới với nhiều ưu điểm. Khai thác triệt để mục tiêu bài học. Tác động hiệu quả với các đối tượng học sinh trong lớp. Các em hiểu rõ về chủ đề và có kỹ năng quan sát tốt. Hứng thú tham gia trình bày, trả lời câu hỏi. Phát huy được năng lực tự học, sáng tạo và gây hứng thú học tập cho học sinh. Tạo cơ hội học sinh trình bày ý kiến cá nhân, biết điều chỉnh và nhận xét sản phẩm của bạn. Học sinh rèn luyện nhiều hơn về kĩ năng nghe, nói, giao tiếp, tinh thần hợp tác.Trình bày đoạn văn rõ ràng, cấu trúc các câu hợp lý, diễn đạt trôi chảy, mạch lạc.
  44. V. Đề xuất, kiến nghị: Xuất phát từ những nguyên nhân về một số hành vi đạo đức, cách ứng xử chưa văn minh, lịch sự của học sinh lớp 4B còn hạn chế, tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp nhằm phát huy những kết quả tích cực đạt được, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh như sau: * Đối với giáo viên: Cần tìm hiểu đặc điểm riêng của mỗi học sinh để có biện pháp giáo dục đạo đức phù hợp, luôn lấy những câu chuyện, tấm gương tốt gần gũi để động viên, giáo dục hành vi đạo đức cho các em. Phối hợp thật tốt các lực lượng xã hội, các đoàn thể trong nhà trường để có những biện pháp giáo dục đạo đức học sinh gắn liền thực tiễn, mang lại hiệu quả thiết thực nhất. * Về phía nhà trường: Cần tăng cường tổ chức cho học sinh tham gia vào các hoạt động tập thể, giúp các em
  45. PHẦN III MINH CHỨNG VỀ HIỆU QUẢ CỦA BIỆN PHÁP GIÁO DỤC - Các phiếu khảo sát học sinh đầu năm học - Các phiếu đánh giá sự tiến bộ của học sinh qua thời gian thực nghiệm - Phiếu đánh giá thực hiện của chuyên môn nhà trường PHẦN IV CAM KẾT Tôi xin cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền tác giả; các biện pháp đã được triển khai thực nghiệm và minh chứng về sự tiến bộ của học sinh là hoàn toàn trung thực.
  46. UBND HUYỆN GIA BÌNH TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐẠI LAI GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC “Biện pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn ngắn đạt hiệu quả cho học sinh lớp 2” Giáo viên: Nguyễn Thị Toan